Bài giảng Đạo Thư viện bài giảng

Con người và Thần Thánh – Thầy NQT. Hoàng Vũ Thăng

I. Khái niệm:
Quan điểm con người gồm con và người. Một nửa mang tính chất con (động vật), một nửa mang tính chất Thiên thần, hay còn gọi một nửa là quỷ sứ một nửa là Thiên thần. Một nửa tính ác một nửa tính thiện, ở đây cần xóa bỏ quan niệm là con người có chủ thể là Thần thánh hay Thần thánh hiện hữu trong con người.

II. Sự sinh ra con người:
1. Linh khí và linh hồn:
Từ rất lâu, trong các tôn giáo vẫn quan niệm rằng vào thời điểm mà người mẹ bắt đầu hoài thai, trong vũ trụ xuất hiện và hội tụ linh khí vào bào thai đó, hay nói rằng lúc đó đã có một linh hồn đầu thai.

Như vậy linh khí linh hồn đó từ đâu? Nó làm thế nào và sẽ tồn tại ra sao?
Linh khí tồn tại trong không gian với cái gọi là tính khí, khí linh. Tính khí ở cấp độ linh tức là ở cấp độ thông tin và cao hơn nữa là cấp độ trí huệ ở trong không gian.
Cho nên trong các dân tộc có câu “Chân nhân từ cổ chí kim không thay đổi”. Khái niệm chân nhân đó là con người đúng với nghĩa của nó.
Khái niệm chân nhân gọi là khiêm nhường, có thể ở khía cạnh nào đó chúng ta thấy có vẻ tự tôn, nhưng chúng ta thấy có vẻ là khiêm nhường khi không nhận là Thần Thánh mà nhận là chân nhân, nó thể hiện một con người mà phát triển toàn thể trong một điều kiện đầy đủ từ đó trong một không gian thông tin. Có 3 cấp độ không gian: Thông tin – Tâm thức – Trí huệ.
Khi mà hình thành một cái gọi là linh khí vào linh hồn đó thì thật ra có 3 thành phần, mà cái gọi là linh khí như chúng ta biết là không gian thực của chúng ta, là không gian đa tạp, nhiều không gian.

Con người có sự nối kết giữa quá khứ hiện tại và tương lai.
Ta sinh ra cùng quá khứ đến hiện tại, ta không biết rằng chính những yếu tố tương lai phát triển với những điều kiện của quá trình tiến hóa, chính quá trình tiến hóa tạo điều kiện cho những xu hướng tương lai đến được, trong khi đó chúng ta hiểu rằng “Ngày mai đang bắt đầu tư ngày hôm nay”.
Theo quan điểm rằng linh khí đó đưa vào được gọi là linh hồn, vì trước khi vào trong bào thai người mẹ để trở thành người, nó đã trở thành một tồn tại rồi. Nếu chúng ta có một chút khả năng để tiếp cận người đàn bà có thai để biết con người sắp tới sẽ như thế nào, điều đó chứng tỏ con người hình thành chỉ là hiện hữu mà thôi, còn thì đã có trước, khi sinh ra là hiện hữu với những điều kiện vật chất, năng lượng, thông tin.
Như chúng ta nói do tính đa tạp hội tụ giữa linh khí quá khứ – hiện tại – tương lai, linh khí của tam thế, của 3 thế giới hội tụ trong con người.
Chúng ta bị ảnh hưởng rất lớn của không gian tâm thức thực, có hiện tượng hoặc là cộng hưởng hay nhiễu loạn để trở thành nhân vật xã hội tự nhiên, thì chân nhân sinh ra rất khó nhưng đã sinh ra thì rất tốt. Con người sinh ra dễ hơn khi môi trường tự nhiên xã hội thuần tính nhưng sự tồn tại của xã hội, thiên nhiên có một quy luật lúc ổn định lúc nhiễu loạn, có quy luật của nó trước khi sinh ra.


2. Hiệu ứng trễ, hiệu ứng lưu:

Sự tồn tại và sự hiện hữu của một con người tương xứng tồn tại với sự hiện hữu, chính sự khoảng cách này chính sự hiệu ứng trễ, hiệu ứng lưu. Bởi vì linh khí thanh cao nào đó để tồn tại thì phải có một số điều kiện. Trong truyện kiếm hiệp nói rằng: ”Hôm nay vị anh hùng mất đi thì 18 năm sau có vị anh hùng nữa” cách đó sự tồn tại này phải có môi trường cho sự tồn tại đó, xuất hiện một khái niệm: một xã hội vô hình, một xã hội vô hình được nhân cách hóa trở thành trung giới.
Tại sao lại sinh ra thủ tục thờ cúng cha mẹ? Chôn cất cha mẹ và thờ cúng, cách đó thủ tục giữ được sợi dây thông tin giữa mình với cha mẹ mình để có thể gặp lại , sinh ra khái niệm trung giới “Trần sao âm vậy”.
Khi chúng ta trong cái mảng thông tin thấy những cái tương tự mới đưa ra một số yếu tố tương tự mới gặt được trong đời  mà trở thành dần dần tồn tại xã hội, ta gọi tồn tại song song. Trong xã hội có sự tồn tại tiền con người, cũng có quan hệ giống con người, cũng có phân chia giàu nghèo, quan, dân, cho đến những sản phẩm của sự nhân cách hóa của chính con người.
Các nhà nghiên cứu về tôn giáo nói rằng: chính con người là phiên bản của Thượng đế. Khi Thượng đế tạo ra một vở tuồng trong 3 không gian, tạo ra linh hồn và linh hồn đó đều có sự tồn tại, sự tồn tại này cần phải là linh khí sống, giống như hiện tượng người con gọi hồn mẹ, thì lúc đó người con phải hao tán một ít linh khí để người mẹ có thể hiện hồn về được.
VD: Người lên đồng cũng hao tán linh khí của mình, cần linh khí sống thì cái đó mới tồn tại được.

3. Số phận, thiên mệnh, sứ mệnh:
Người ta nói rằng: Con người chúng ta làm hỏng phiên bản của Thượng đế  khi những điều kiện cần linh khí sống , không gian tâm thức thực bị quá trình nhân cách hóa con người làm biến dạng  phiên bản của Thượng đế. Sự biến dạng này sinh ra cái gọi là “số phận”. Cái phiên bản bắt đầu tách ra chưa hội tụ chỉ có linh khí thanh mà chưa có linh khí thực (linh khí sống). Nó phải hội tụ đủ linh khí thanh và linh khí thực thì mới tồn tại và hiện hữu được.
Xét cho cùng mấu chốt của vấn đề là sự ảnh hưởng của phần linh khí thực vào mỗi một tồn tại để sinh ra, còn nếu không có linh khí thực thì sẽ sinh ra cái gọi là “thiên mệnh”, phiên bản của Thượng đế. Người ta nói rằng: cái thiện cái tốt là do Thượng đế ban cho con người, còn cái ác cái xấu là do chính con người tự sinh ra.
Nhưng mà không có thực tính thì cũng không có vô tính. Con người không có thực tính thì không tồn tại được, gọi là không có sống.
Quan niệm rằng khi Thượng đế nặn ra con người từ những vật chất, sau đó tạo ra linh hồn cho con người. Con người khi tạo ra thì rất tốt đẹp, nhưng sau khi phát triển thì rất là rối loạn.
Vấn đề đặt ra là khi mối quan hệ giữa 2 điều kiện: điều kiện động và điều kiện tĩnh, điều kiện ngoại và điều kiện nội, vẫn có 1 sự chủ động sắp đặt các điều kiện này được vô hiệu hóa, ít nhiều có tính linh. Tính linh của con người với điều kiện bên trong phát ra, thì điều kiện này  nó sẽ đưa ra tạo thành hợp với tính thực để tạo thành cái gọi là “sứ mệnh”. Bởi vì nó phải có những điều kiện: nội điều kiện và ngoại điều kiện.
Điều kiện muốn tiến hành thế này thì phải thế kia. Cái phải thế kia chính là cái sứ mệnh của mỗi con người. “Muốn, phải” hội tụ linh khí chân nhân để tạo ra cái gọi là sứ mệnh của mỗi con người. Phải nói rằng không ít con người không hiểu sứ mệnh của mình, sự hiểu này xin được nói rằng không phải tri thức bình thường, mà có 1 số người có quá trình tự động. Trên thực tế, trong trạng thái tự động đặt vấn đề, thông qua 1 quá trình phát triển tự nhiên. Nhưng chúng ta sinh ra do quá trình sinh ra và lớn lên không tự nhiên được nữa nên quá trình tự động bị hạn chế, bị ức chế. Mới sinh ra đã khóc và đã phải thế này, thế kia.
VD:
Ngạn ngữ : “Có 1 cậu bé được mẹ dặn rằng khi đi luôn phải nhìn xuống chân” và như vậy cậu bé sẽ không bao giờ được nhìn thấy bầu Trời, bởi vì lúc nào cũng nhìng xuống chân sợ ngã.
Trong quá trình tự nhiên, quá trình tự động của con người bị ức chế, ức chế đến mức độ con người không thể tự hiểu mình được nữa, mấu chốt là tự hiểu mình, đó là tự động hiểu được cái sứ mệnh của mình.
Nhiều người từng than thầm rằng chúng ta sinh ra nhằm thế kỷ! Nhằm nhà! Giá mình phải thế này, phải thế kia. Do sứ mệnh của mình không chuyển tải tự động để chúng ta tự hiểu được mình, hiểu được sứ mệnh của mình.

4. Trạng thái thiền định:
Có những người trong vô thức, bán vô thức, tự hiểu rằng mình phải thế này, phải thế kia. Những việc này sẽ được xuất hiện trong cách sau này, giải quyết duy nhất là được xuất hiện trong trạng thái thiền định.
VD: Ta định làm gì? Thiền định trong trạng thái thật tốt, thanh khí thật tốt, ta sẽ hiểu ra vấn đề.
Một biện pháp rất đơn giản: Trước khi ta suy nghĩ gì? Yêu cầu thiền định, thanh khí thật tốt, thật sáng, thật trong. Sau đó suy nghĩ việc làm của chúng ta, tất ta có 1 quá trình chuyển tải tự động tự nhiên với những việc liên quan thích ứng sứ mệnh của mình, với chuyển tải của não bộ của mình. Nó sẽ diễn lại bằng ấy luôn luôn những não hóa mà chúng ta có thể hiểu được. Tâm thức của mình là sự nghiên cứu, học hỏi, không phải trên sách vở, trường lớp, mà là trên tất cả những điều đó tạo thêm những yếu tố và quá trình để chúng ta trong trạng thái thiền định xác nhập nó lại giống như xác nhập những tình hình đông ép trong trạng thái thiền định, trong trạng thái mà người ta gọi là trạng thái sáng tạo, để quá trình tự động, để cái gọi là hiệu ứng trong không gian trí huệ phát động trong trạng thái thiền định. Trong trạng thái thiền định, chúng ta đã kích thích được não thất, kích thích được cái tầm mức trí huệ thông giao với không gian trí huệ bên ngoài, phát động được trí huệ bên trong để thông giao với không gian trí huệ bên ngòai. Lúc đó mọi việc được thông tỏ rất nhiều. Tất nhiên thông tỏ đến đâu phụ thuộc vào khả năng thiền định kích thích não thất đến đấy.
Chúng ta cũng có thói quen suy nghĩ lưởng ngưỡng ở đâu trong đầu, không biết rằng suy nghĩ phải đặt ở Hạch Tùng. Chúng ta cũng có thói quen vận khí lung tung trong người, phải biết rằng năng lực, nội lực của chúng ta xuất phát từ Đan điền. Mọi hành động, bất kỳ động tác năng lượng nào cũng đều xuất phát từ Đan điền.
VD: Ngay cả nói, đưa tay, đi lại, cũng có nguồn nội lực từ Đan điền đưa ra.
Suy nghĩ cũng vậy, phải có nguồn ánh sáng, nguồn linh khí, linh quang từ não thất phát động ra. Chúng ta cũng như cái nôi để từ đó chúng ta mới chấm dứt được trí huệ không gian, phải có hiệu ứng như thế này mới tránh được khí. Trong quá trình tồn tại của chúng ta là quá trình năng động. Trong quá trình hoạt động ngầm là quá trình giao tiếp tương tác với mọi sự vật hiện tượng, sự giao tiếp ràng buộc này sẽ làm ngăn chận giống như ràng buộc giao tiếp với cấu trúc khí của chúng ta.
Khi chúng ta hoạt động trong không gian, bị các lực hút của cái to, cái nhỏ, cái sống cái chết của con người, con vật, đất đá. Khi chúng ta tiến đến cái đích nào đó cái đích của không gian trí huệ, thì buộc trạng thái con người chúng ta phải thành yếu tố họai thì chúng ta mới không bị hút thoát ra khỏi cái tương tác thực tương tác mức thấp hơn. Khi ta bị bệnh phát  động trí huệ nội của mình, thì tương tác đồng với.

5. Vấn đề con người:
Vậy con người, đã là con người, trước khi trở thành con người?
Con người phải làm con người trước khi trở thành con người, còn lại là sự hiện hữu vật chất bổ sung yếu tố vật chất, cấu trúc vật chất, cấu trúc sinh học, cơ quan, hệ thống chức năng, như vậy con người phải tồn tại trong không gian, chừng như đây chính là Thần Thánh, cho nên có quan niệm trong mỗi con người đều có Phật tính, Thánh tính, Phật tại tâm. Bất kỳ quan hệ và một cái tầm mức trên trở nên linh động hơn, nhưng một quá trình con người không phải quá trình tiến hóa mà phải là quá trình tự hóa, kết cục con người phải trở nên hiện hữu một chút.
Thế là con người bước đầu trước vấn đề xuyên qua những không gian để trở về sự hiện hữu, xuyên qua các không gian. Ở tầng không gian thực này con người bị thực hóa, cơ thể hóa bằng cấu trúc linh động, sang cấu trúc vật chất, cấu trúc cứng, cấu trúc đặc, cấu trúc loãng con người dần dần bị trôi vào một cái vòng bị nhiễu loạn hóa, các đạo gia cho rằng quá trình sinh ra này vô hình chung là hình thành cái nghiệp, đạo gia cho rằng: coi như cuộc sống con người có 3 dạng : Xã nghiệp, trả nghiệp và xây nghiệp.
Trong quá trình hiện diện sự hiện hữu của con người để trở thành con người, sống thực, nếu mà không chủ động thì sẽ bị các điều kiện thực làm tha hoá con người đi, nên  ta phải chủ động, sự chủ động này còn quyết định con người tham gia vào quá trình tiến hóa của loài người. Nếu con người không chủ động thì sẽ không theo kịp sự tiến hóa của nhân lọai và lập tức bị đẩy ra khỏi bánh xe tiến hóa của loài người. Bánh xe sẽ bị hạ cấp xuống tới nhân vật yếu tố cơ bản trở thành yếu tố lệ thuộc. Người ta nói rằng: quá trình con người là quá trình thực tế cuộc sống con người, sự tồn tại của con người sau khi sinh ra, chết đi, sinh ra là thực chết đi là trở về thanh. Nhà triết học nói rằng: “Sự chết là sự trở về“.

5.1. Sự làm chủ của mình:
Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng một vấn đề rất lớn trong quá trình  tồn tại con người, đó là sự làm chủ của mình. Vô hình chung quá trình sinh trong không gian để trở về tồn tại thực, con người rơi vào trạng thái mất dần quyền tự chủ của mình, từ trạng thái tồn tại không gian sang trạng thái tồn sự vật, vô hạn, hữu hạn, linh động, sang trạng thái cứng, đặc, con người đánh mất quyền tự chủ của mình, bị xô đẩy, lôi cuốn, bắt buộc, hạn chế, quá trình sống của con người trở nên bi quan, và con người không phải được sống mà là bị sống. Xã hội thực hóa này còn được định nghĩa là bể khổ, khi con người thực sự khổ đến không còn là con người nữa, mất quyền tự chủ của mình. Người ta nói rằng con người nếu có quyền tự chủ thì cuộc sống trở thành thiên đường mà khi mất đi quyền tự chủ thì cuộc sống trở thành địa ngục.
Vấn đề đặt ra bây giờ không còn là sự sinh tử, mà là làm chủ. Sự sinh tử không quan trọng, sự tồn tại của con người ngay cả Thần Thánh cũng không quan trọng nữa bởi vì nó chỉ khác sự tự chủ của con người. Khi ta tự chủ được đương nhiên bản thể chúng ta ở cảnh giới tối cao của sự tự chủ đó là trí huệ, đồng nghĩa với sự tư chủ được , đồng nghĩa với việc con người có được quyền năng. Nói cách khác ở khía cạnh nào đó, lúc đó con người ngang bằng với Thượng đế, ngang bằng với Phật tổ.
Có quyền năng đã làm chủ được mình, tức là có khả năng làm chủ được thế giới, không làm chủ được thế giới thì cũng chưa làm chủ được mình . Đó là mối quan hệ đối ngẫu với nhau, đó là thể hiện bình đẳng trong không gian khi chúng ta xác định được sự làm chủ của mình để trở thành yếu tố cơ bản của không gian chứ không phải yếu tố lệ thuộc không gian. Chúng ta không phải bàn đến sự tồn tại hay không tồn tại của linh hồn, bởi vì đó là khái niệm mà khi định nghĩa chúng ta sẽ hiểu được.

5.2. Vấn đề thứ hai:
Quá trình luân hồi cũng vậy, quá trình sinh ra cũng vậy, nếu chúng ta giải quyết được những sự tồn tại này các quá trình của nó, mục đích của sự giải quyết này chỉ là làm chủ. Chính vì vậy cho nên hiểu những gì ta đang sống đây chỉ sự chi phối điều khiển của một cái gì đó, một người nào đó, không ít  khi ta có những giây phút cảm giác như cái gì đó đang điều khiển mình, một số hiện tượng nghe như người khác nói vào tai mình bảo thế này thế khác nghe như trừu tượng, người đó là người nào, việc chi phối điều khiển đó là ai, chính là mình.
Người ta nói rằng mỗi con người đều có vị thần hộ mệnh, vị thần đó chính là con người, chân nhân của mình, mỗi con người đều có chân nhân của mình đó chính là mình. Chúng ta đang chuyển giao quyền lực thực tế và chúng ta luyện tập để mình và vị thần hộ mệnh là một, tìm cách để dung lập lại, ta phải chủ động bằng không ta bị chi phối, bị điều khiển, yếu tố giúp ta chủ động làm chủ này thì chúng ta là chủ quá trình khí hoá và vật chất hoá, lúc này sự sống sẽ trở nên 3 điều kiện.
Điều kiện linh hoá ngay khả năng khí hoá và vật chất hoá đang quá trình tốt, còn điều kiện linh hoá tức là mọi người đang muốn có môt sợi dây thông tin, đang muốn có sự thông linh, muốn biết mình một cách chính xác, thực tế đó là quá trình linh hoá.
Có 3 quá trình để tạo sự  làm chủ của con người: làm chủ vật chất hoá, làm chủ khí hóa và  làm chủ linh hoá. Còn nếu chúng ta sẽ sa vào cõi ta bà, cái bể khổ vì thực hoá một cách dại dột, thực tế vì ta ít khi được sống là mình, lúc phải làm con, lúc phải làm bố, lúc phải làm mẹ, lúc làm chồng, lúc làm ông, lúc làm bà. Trong đời thay đổi vai diễn của mình liên tục không có vai nào là vai của mình, là phương tiện để chuyển thế, để tồn tại và phát triển.

Gửi phản hồi